Nuôi loài vật có tiếng kêu ma quái, nhìn thấy đã 'rợn tóc gáy', anh nông dân ở Đắk Lắk ngồi không rung đùi vẫn bỏ túi chục triệu đồng/tháng

Tắc kè, với bộ da sần sùi, đôi mắt tròn lồi và tiếng kêu vang vọng trong đêm, từ lâu đã gắn liền với những cảm giác lo sợ, thậm chí là ác cảm trong tâm trí nhiều người. Tuy nhiên, ít ai biết rằng loài bò sát này lại sở hữu giá trị kinh tế không nhỏ, đặc biệt trong lĩnh vực y học cổ truyền và chế biến thực phẩm. Theo Đông y, tắc kè là một vị thuốc quý, có tác dụng bổ phổi, tăng cường sinh lực cho phái mạnh, hỗ trợ điều trị đau lưng, mỏi gối và nhiều bệnh lý khác. Bên cạnh đó, tắc kè còn được nuôi để cung cấp dược liệu xuất khẩu với giá trị kinh tế cao.
Nắm bắt được tiềm năng này, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, đầu tư vào mô hình nuôi tắc kè. Họ không chỉ nuôi tắc kè thương phẩm mà còn tập trung vào việc tạo ra những cá thể bố mẹ chất lượng, từ đó cung cấp con giống có khả năng sinh trưởng tốt cho thị trường.
Ở Việt Nam, giống tắc kè được nuôi phổ biến nhất là tắc kè hoa - loài tắc kè bản địa phân bố rộng rãi tại các khu vực rừng núi và miền quê. Đây là giống tắc kè được ưa chuộng nhờ kích thước lớn (có thể dài tới 30–35 cm khi trưởng thành), khả năng sinh sản tốt và giá trị cao.
Tắc kè
Tuy nhiên, nuôi tắc kè không hề đơn giản như nuôi gia súc hay gia cầm thông thường. Theo kinh nghiệm của nhiều hộ nông dân, quy trình chăm sóc tắc kè đòi hỏi sự tỉ mỉ và nghiêm ngặt hơn. Thức ăn phải đảm bảo sạch 100%, chuồng trại phải thông thoáng, đủ ánh sáng tự nhiên và nhiệt độ vừa phải. Việc phun thuốc sát trùng hàng tuần và vệ sinh chuồng trại thường xuyên là vô cùng quan trọng để phòng tránh các bệnh ngoài da, nhiễm khuẩn hay bệnh tiêu hóa cho tắc kè.
Thức ăn cho tắc kè cũng cần đa dạng và đảm bảo đủ dinh dưỡng, bao gồm các loại côn trùng như dế, sâu gạo, gián, cào cào. Một yếu tố quan trọng khác là đảm bảo không gian yên tĩnh, tránh tiếp xúc nhiều với con người. Bởi nếu bị stress hay gặp vấn đề về tâm lý, tắc kè sẽ bỏ ăn và chậm lớn.
Ngoài ra, người nuôi cũng cần phân loại tắc kè theo kích cỡ để dễ chăm sóc và hạn chế tình trạng tắc kè cắn nhau. Thời điểm thu hoạch lý tưởng là sau 8-10 tháng nuôi, khi trọng lượng đạt từ 80g trở lên. Đối với những con tắc kè được lựa chọn làm giống, cần giữ lại những cặp đực cái khỏe mạnh, sinh sản đều. Mỗi năm, tắc kè cho sinh sản từ tháng 4 đến tháng 9, những tháng còn lại là thời gian ngủ đông.
Câu chuyện thành công của anh Nguyễn Văn Tài (SN 1972, ngụ huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) là một minh chứng rõ ràng cho tiềm năng kinh tế của mô hình nuôi tắc kè.
Vào đầu năm 2019, anh Tài quyết định ra Hà Nội tìm mua 60 con tắc kè giống thương phẩm về nuôi sinh sản. Thời gian đầu, do chưa có nhiều kinh nghiệm, một số con không thể phát triển, ảnh hưởng đến chất lượng và sản lượng. Tuy nhiên, anh không nản lòng mà tích cực tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước.
"Quy mô nuôi tắc kè ban đầu chỉ 10m2, đến năm 2020 gia đình tôi đã đầu tư xây dựng tăng quy mô lên 50m2. Hiện gia đình tôi đang nuôi hơn 400 con tắc kè, gồm cả con tắc giống và tắc kè thương phẩm, lúc nhiều nhất lên đến 500 con", anh Tài chia sẻ về quy mô trang trại của mình.
Hiện tại, anh Tài kinh doanh tắc kè thương phẩm với mức giá dao động trong khoảng 150.000-250.000 đồng/con, tùy theo trọng lượng. Khách hàng của anh chủ yếu mua về để gây nuôi sinh sản hoặc làm dược liệu.
Với hơn 5 năm kinh nghiệm, anh Tài khẳng định rằng nuôi tắc kè tuy không quá phức tạp, nhưng đòi hỏi quy trình chăm sóc nghiêm ngặt. Tắc kè cần được nuôi trong môi trường chuồng trại sạch sẽ, thông thoáng, mát mẻ và có ánh sáng tự nhiên.
Tắc kè sinh sản mạnh vào mùa từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch. Mỗi lứa, tắc kè mẹ đẻ từ 6–8 trứng, sau 2–3 tháng trứng sẽ nở. Loài vật này có thể sinh sản liên tục nhiều năm. Theo kinh nghiệm của anh Tài, để tắc kè sinh sản hiệu quả, nên nuôi theo tỷ lệ 1 con đực ghép với 4 con cái trong mỗi chuồng. Bên cạnh việc bán tắc kè giống và thương phẩm, anh Tài còn ấp ủ kế hoạch xây dựng nhà xưởng chế biến các sản phẩm từ tắc kè như cao, bột khô và rượu tinh chất.
Để tiết kiệm chi phí và chủ động nguồn thức ăn, anh Tài còn nuôi thêm dế mèn. Từ 2 thùng thử nghiệm ban đầu, hiện anh đã mở rộng lên 20 thùng nuôi dế, mỗi thùng có diện tích 1,2x2,4m, bên trong lót khay xốp để dế trú ngụ. Sau khoảng 45 ngày, mỗi đợt thu được 50-60kg dế, bán với giá 150.000 đồng/kg. Nhờ mô hình kết hợp này, anh Tài vừa có nguồn thức ăn sạch cho tắc kè, vừa có thêm thu nhập từ việc bán dế thương phẩm.
Không chỉ ở Đắk Lắk, mô hình nuôi tắc kè cũng đang được nhân rộng ở nhiều địa phương khác trên cả nước. Tại huyện Phú Xuyên, TP.Hà Nội, chị Nguyễn Thị Lệ đã thành công với mô hình nuôi tắc kè gai đen.
Theo chị Lệ, việc nuôi tắc kè tương đối đơn giản, chi phí đầu tư thấp. Thức ăn chủ yếu là các loại côn trùng như dế, châu chấu, giun… đều dễ tìm ở địa phương. Về chuồng trại cũng không tốn nhiều diện tích hay vật liệu, do đó không cần đầu tư vốn nhiều. Quá trình chăm sóc không đòi hỏi kỹ thuật cao, phù hợp với điều kiện nông thôn. Tắc kè cũng có thể mắc bệnh, nhưng không xảy ra dịch lây lan diện rộng. Nhờ đặc tính này, mô hình nuôi tắc kè trở thành lựa chọn an toàn, hiệu quả và ít rủi ro cho người nông dân.
Chị Lệ cho biết, tắc kè có tuổi thọ lên đến 10 năm và nhu cầu sử dụng loài này ngày càng cao. "Mỗi con tắc kè mẹ có thể đem lại từ 1 đến 2 triệu đồng. Với giá trị bền vững của nó, tắc kè là loài động vật có tiềm năng kinh tế lâu dài", chị khẳng định.
Nhờ đặc tính dễ nuôi, chi phí đầu tư thấp, hiệu quả kinh tế cao và đầu ra ngày càng mở rộng, mô hình nuôi tắc kè đang chứng minh rằng chỉ cần nhạy bén và dám thử sức, người nông dân hoàn toàn có thể làm giàu từ những con vật sở hữu vẻ ngoài sần sùi, đáng sợ. Câu chuyện thành công của anh Tài và chị Lệ là nguồn động lực lớn, truyền cảm hứng cho nhiều nông dân khác mạnh dạn khai phá tiềm năng kinh tế từ loài vật này, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống.
T. Hà (TH) (Theo Thương Hiệu và Pháp Luật)


